Message CHỐNG PHÁPKháng chiến1945-1954
HÀO KHÍVIỆT NAMĐời đời nhớ ơncha anh!Các hình ảnh trong 9 năm huy hoàng.
LỜI NÓI ĐẦU9 năm làm một Điện Biên Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng“”Tro ng nh ữ n g nă m t h á n g o a n h li ệ tcủ a c u ộ c kh á n g c h i ế n ch ố n g th ự cdâ n P há p , n h â n d â n t a s ố n g t ro n gđó i ng h è o và bo m đạ n nh ư n g vẫnki ê n cư ờ n g đứ n g lê n vì Tổ quố c .Bi ế t ba o c h iế n s ĩ đã ng ã x u ố n g , h isi n h tu ổ i xu â n và m á u x ươ n g đểg i à nh l ạ i đ ộ c l ậ p t ự d o . D ù t h ờ ig i a n đã lù i x a , âm van g củ a th ờ ilử a đạ n ấy vẫn van g vọ n g mãi ,nh ắ c n h ở ch ú n g t a về c ôn g l a o vàti n h t h ầ n b ấ t k h u ấ t củ a c h a a n h .Mỗ i t ra n g tạ p c h í là lờ i t r i ân , l àti ế n g gọi tha thi ế t đư a ta tr ở vềvớ i q u á k h ứ hà o h ù n g – n ơ i t ừ n gdò n g c h ữ , t ừ n g h ìn h ản h đ ề u t h ấmđẫ m ti n h t h ầ n y ê u n ư ớ c v à s ự h isi n h ca o c ả . Đó k h ô n g ch ỉ l ành ữ n g c â u c h u y ệ n về c h i ế n thắ n g ,mà cò n l à k ý ứ c v ề n h ữ n g c o nng ư ờ i b ì n h d ị đ ã g óp p hầ n là m n ê nlị c h s ử b ằ n g lò n g c an đ ả m và n i ề mti n b ấ t k h u ấ t . Từ n g t r a n g g i ấ y n h ưnh ị p đ ậ p c ủ a t r á i t i m m ộ t d â n t ộ cđã tr ả i q ua k h ổ đ a u đ ể đ i đ ế n n g àyđộ c l ậ p , t ự d o .L à lờ i n h ắ c th iê n g l i ê n g v ề c h ặ n g đư ờ n g kh á n g ch i ế n đầ y m á u v à h o a củ a d â n tộ c .Mỗ i vầ n t h ơ n h ư t h ắ p l ê n n i ề m t ự hà o v à n ỗ i t h ư ơ n g n h ớ vớ i n h ữ n g ng ư ờ i đã ng ãxu ố n g vì T ổ qu ố c . C h i ế n t h ắ n g ấ y kh ô n g c h ỉ l à t ra n g s ử và n g , m à c ò n là n g ọ n l ử ayê u n ư ớ c c h á y m ã i t r o n g t i m m ỗ i n g ườ i Vi ệ t Na m . Chiến sĩ trên chiến trường chống Pháp.
Bối cảnh lịch sửMục Lục1.2.Diễn biến cuộc chiến3.Nguyên nhân thắng lợi4.Ý nghĩa thắng lợi
BỐI CẢNHLỊCH SỬ1
Vì sao Pháp xâm lược Việt Nam?Liê n qu ân P há p - Tâ y B an N ha t ấn cô ng Đ à Nẵ ng nă m 18 58 .Vi ệ t N a m l à m ộ t q u ố c g i a c ó v ị t r í đ ị a l ý q u a n t r ọ n g, n ằ m ở t r u n g t â m k h u v ự cĐô n g Na m Á , v ớ i n h i ề u cả n g bi ể n t h uậ n lợ i và ng u ồ n t à i n g u yê n th i ê n n h i ê nph o n g ph ú . C h í n h đ i ề u đó đã kh i ế n n ư ớc t a t r ở th à n h m ụ c t i ê u n hò m n gó c ủ acá c t h ế l ự c x â m l ư ợ c , đ ặ c b iệ t l à t h ự c d â n Ph á p . T r o n g k h i đ ó , c hế đ ộ ph o n gki ế n Vi ệ t N a m l ú c b ấ y g i ờ đ a n g d ầ n s uy y ế u, đ ấ t n ư ớ c r ơ i v à o k h ủ n g h o ả n g ,tạ o đ i ều k i ệ n t h u ậ n l ợ i c h o n g o ạ i b a n g c a n t hi ệ p . L ấ y c ớ “ b ả o v ệ Đ ạo T h i ênCh ú a”, n ă m 1 8 5 8 , th ự c d â n P há p n ổ s ú n g t ấ n c ô n g b á n đ ả o S ơ n Trà ( Đ à N ẵ n g ) ,mở đ ầ u c h o c u ộ c c h i ế n x â m l ư ợ c và t h ờ i k ỳ đ ô h ộ k éo d à i c ủ a c h ủ n g h ĩ a đ ếqu ố c ở V i ệ t Na m . Đ ế n s a u n à y, k h i Nh ậ t Bả n ké o qu â n và o Đ ô n g D ư ơ n g t r o n gCh i ế n t r an h t h ế g i ớ i t h ứ h a i , n h ân d â n t a c ù n g l ú c c h ị u á p b ứ c củ a c ả P h á plẫ n Nh ậ t , k h i ế n đờ i số n g vô cù n g c ự c k h ổ v à đ ấ t n ướ c ch ì m tr on g bó n g tố icủ a c h i ế n t r a n h , đ ó i n g h èo .
Việt Nam trong thế “một cổ hai tròng”.Sa u Ch iế n t r an h t h ế g iớ i t h ứ h a i , Việ tNa m rơ i và o tì nh t h ế vô c ù n g h iể m n g h è o,bị kẹ p g i ữ a ha i t h ế l ự c là Nh ậ t v à Ph á p –mộ t “th ế g ọ n g k ì m” đầy nguy hi ểm . Tr o n gkh i mâ u th u ẫ n g i ữ a N h ậ t và Ph á p n g àycà n g gay gắ t , n h â n d â n t a v ẫ n p hả i c hị ucả nh áp b ứ c , b ó c l ộ t n ặn g n ề . K h i c h i ế ntr a n h k ế t thúc , lợi d ụn g t h ờ i c ơ N h ậ t đ ầ uhà ng Đồ ng mi n h , t h ự c d â n Ph á p đ ã n h a n hch ón g qu ay tr ở lạ i, b ấ t ng ờ tấ n côn g tr ụsở Ủ y ba n n h â n dâ n Nam B ộ, m ở đầ u c h ocu ộc x â m lượ c l ầ n t h ứ h ai n h ằ m t á i c h i ế mViệ t Nam . Và dấu mốc nạ n đó i 19 4 5 , bikị ch đ au th ư ơ n g củ a tran g sử Vi ệ t , làmch ết đó i 2 t r i ệ u n g ư ờ i d â n v ô t ộ i , đ â u đ â ucũ ng van g l ê n t iế ng kh ó c t h a n , xá c n g ư ờ iđó i n ằm la li ệ t ve n đ ườ ng , t rẻ t h ơ m ồ c ôi ,là ng mạ c t iê u đ iề u. Nạ n đ ói nă m 1 9 4 5kh ôn g ch ỉ là nỗi đau m ấ t m á t to lớn , màcò n l à l ờ i t ố c áo đ a n h t h é p t ộ i á c c ủa c h ếđộ t hự c d â n , p h á t xí t đ ố i v ớ i nh ân d ân t a . Kh ô n g c h ỉ gây ra nạn đ ó i thả m kh ố cnă m 194 5, th ự c d â n Ph á p và ph át x í tNh ậ t cò n g ie o r ắc ba o t ộ i ác kh á clê n đất n ư ớ c t a – b ó c l ộ t sức l aođộ n g , c ư ớ p ruộ n g đất và đẩy n h â ndâ n v à o c ản h cù n g c ự c. C u ộ c s ố n gcơ cự c , áp bứ c ấy đã đ ư ợ c ph ả n án hsâ u sắ c qu a nhi ề u tá c ph ẩ m vă n h ọ chi ệ n t h ực . T ắ t đ è n c ủa N g ô Tất T ốtố c á o c h ế đ ộ s ư u c a o t h u ế n ặn g ,cò n Ch í Phè o củ a Na m Ca o ph ơ i bàysự tà n n h ẫ n c ủ a xã hộ i t h ực dâ nph o n g ki ế n đ ã t h a hó a c o n ng ườ i .Nh ữ n g tá c p h ẩm ấ y k h ô n g c hỉ ph ả nán h hi ệ n th ự c đau th ư ơ n g mà c ò nth ể hiệ n t i n h thầ n phả n k h á n g , t hứ ctỉ n h lòn g ng ư ờ i , nuô i dưỡ n g khá tvọ n g tự d o và côn g lý – ng ọn lửa âmỉ d ẫn đ ế n nh ữ n g cu ộ c đ ấu t r a n hg i à nh đ ộ c l ậ p s a u n ày.Nạn đói 1945.Người dân bị đưa đi khai thác tài nguyên.
TÌNH HÌNH THẾ GIỚILÚC BẤY GIỜNgoại trưởng Nhật Bản Mamoru Shigemitsu đã văn kiện chấp nhận đầu hàng chính thức kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt hoàn toàn, mở ra một bước ngoặtlớn trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa xã hội ra đời và từng bước phát triển, trở thành hệ thống đối trọng vớichủ nghĩa tư bản. Trên khắp các châu lục, đặc biệt là ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, phong trào giải phóngdân tộc dâng cao mạnh mẽ, hàng loạt quốc gia thuộc địa đứng lên giành lại độc lập, tự do cho dân tộc mình.Cùng thời điểm đó, quan hệ quốc tế bước vào thời kỳ mới đầy biến động, khi trật tự thế giới hai cực I-an-tađược hình thành, do hai siêu cường Liên Xô và Mỹ đứng đầu mỗi phe. Trật tự này vừa tạo nên sự ổn định tươngđối sau chiến tranh, vừa làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt, dẫn đến Chiến tranh Lạnh kéo dài trong nhiềuthập kỷ. Thế giới bước vào giai đoạn phân hóa sâu sắc về chính trị, kinh tế và quân sự – một thời kỳ đầy tháchthức nhưng cũng mở ra nhiều cơ hội cho các dân tộc bị áp bức vùng dậy tự quyết vận mệnh của mình.Đại diện của "Tam cường" hiện diện đông đủ tại hội nghị.
Đầ y b i ế n đ ộn g n h ư n g cũ n g m ở r a c ơ h ộ i đ ể nh â n d ân đ ứ n g đ ậ y đ ấ u t ra n h g ià n hđộ c l ập . S au t h ắ n g l ợ i v an g d ội c ủ a C á c h m ạ n g T h á n g Tá m n ă m 1 9 4 5 , n ư ớ c Việ tNa m D â n c h ủ C ộ n g h ò a ra đ ờ i , mở r a k ỷ n g u yê n đ ộ c l ậ p đ ầ u t i ê n t r o n g l ị c h s ửhi ệ n đạ i d ân t ộ c . T u y n h i ê n , c h í n h q u y ề n c á c h m ạ n g c òn n o n t r ẻ , n ề n k i n h t ếki ệ t qu ệ sa u nh i ề u nă m c h i ến tra n h , n ạ n đó i nă m 1 9 4 5 vẫ n ch ư a đư ợ c khắ c p h ụ c,và c á c th ế l ự c t h ù đ ị c h t r o n g – ng o à i n ư ớc đa n g t ì m c á c h lậ t đ ổ c h í n h q uy ề n m ớ i .Tro ng k h i đ ó , t ì n h h ì n h th ế g i ới s a u C h i ế n tr an h t h ế g i ớ i t h ứ ha i c ó n h i ề u ch u y ể nbi ế n s âu s ắ c . P h o n g t r à o g i ả i p h ó n g dâ n t ộ c l a n r ộ n g k hắ p cá c c h âu l ụ c , c ổ vũmạ n h mẽ ti n h th ầ n tự c h ủ , kh át vọ n g độ c lậ p c ủ a các qu ố c g i a th u ộ c đị a , tro n gđó có Việ t N a m . G i ữ a mu ô n và n k h ó k h ă n ấ y, Đ ả n g và nh â n d â n ta vẫ n g i ữ v ữ n gni ề m ti n , đ ồ n g l ò n g b ả o vệ t h à n h q u ả c á c h m ạn g , qu y ế t t â m g iữ v ữ n g n ề n độ c lậ pno n t r ẻ và v i ết ti ế p t r a n g s ử h à o h ù n g c ủ a d â n t ộ c .CÙNG VỚI ĐÓ, TÌNH HÌNH TRONG NƯỚCCác chiến sĩ luyện tập ở Quảng Ngãi.
Hỡi ai yêu nướcthương nòiTrở về Tổ quốc giết loài thực dân(Sưu tập Bảo tàng Cách mạng)“”Hai câu thơ vang lên như lời hiệu triệu thiêng liêng của non sông, khơi dậy trong lòng mỗi người ViệtNam tình yêu nước và ý chí đứng lên chống giặc. Đó không chỉ là tiếng gọi trở về, mà còn là mệnh lệnhcủa Tổ quốc, thôi thúc bao người con rời bỏ quê hương xa xứ, cầm vũ khí ra trận để giành lại độc lập vàtự do. Cùng với lời kêu gọi ấy, một làn sóng sáng tác cổ động nở rộ: hàng loạt tranh cổ động, khẩu hiệu,bài thơ, bài hát và các tác phẩm văn hóa nghệ thuật ra đời, truyền lửa cho đồng bào và chiến sĩ. Nhữngấn phẩm ấy vừa là nguồn động viên tinh thần, vừa là phương tiện tuyên truyền, tập hợp lực lượng và cổvũ tinh thần đại đoàn kết toàn dân. Nhìn lại, hai câu thơ ấy không chỉ đánh thức lòng căm thù xâm lượcmà còn châm ngòi cho một phong trào văn hóa kháng chiến mạnh mẽ, góp phần làm nên sức mạnh tinhthần không thể khuất phục của dân tộc.Tranh cổ động chống Pháp.
DIỄN BIẾNCUỘC CHIẾNNam Bộ khángNhững ngày đầu chống 2Ngày 2-9-1945, khi nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn nô nức míttinh mừng Ngày Độc lập, quân Pháp bất ngờ nổ súng vào đámđông, gây nên cảnh tang thương giữa ngày hội non sông. Đêm22 rạng sáng 23-9-1945, chúng tiếp tục đánh úp trụ sở Ủy banNhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ Sài Gòn, chính thức mở đầucuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai.Sáng 23-9-1945, tại nhà số 629 đường Cây Mai (nay là NguyễnTrãi), hội nghị khẩn cấp được triệu tập, quyết định thành lậpỦy ban Kháng chiến Nam Bộ do đồng chí Trần Văn Giàu làmChủ tịch. Ngay trong sáng đó, đồng chí Trần Văn Giàu phát lờikêu gọi toàn dân: “Tất cả đồng bào, già trẻ, trai gái hãy cầm vũkhí xông lên đánh đuổi quân xâm lược”. Lời kêu gọi nhanhchóng lan rộng khắp Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định và toànNam Bộ, thổi bùng phong trào kháng chiến kiên cường củanhân dân.Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ đã “nhất tềđứng lên”, anh dũng mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dânPháp, viết nên trang sử oanh liệt đầu tiên của nước Việt Namđộc lập. Chiều 23-9-1945, Sài Gòn bừng khí thế cách mạng:toàn thành phố tổng đình công, công sở, chợ búa đóng cửa,chướng ngại vật dựng lên khắp nơi. Hơn 6.500 chiến sĩ cùngcông nhân, thanh niên, tự vệ kiên cường chiến đấu, vang dội lờithề “Độc lập hay là chết!”.Ngọn lửa kháng chiến nhanh chóng lan khắp Nam Bộ và NamTrung Bộ, hun đúc phong trào “Nam tiến” sôi sục khắp cảnước. Với tinh thần bất khuất và lòng yêu nước nồng nàn,tháng 2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng quân dân Nam Bộdanh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”. Đến nay, Nam Bộ khángchiến vẫn là lời sắt son khẳng định ý chí độc lập của dân ta.
ng chiến: Pháp trở lại Hào khí người dân Nam Bộ ngày đầu chống thực dân.
LỜI KÊU GỌI CỦA CHỦ TỊCHHỒ CHÍ MINHSau khi Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (9/1946) được ký kết, nhân dân ta vẫn mong muốn duy trì hòabình để có thời gian củng cố lực lượng, khôi phục đất nước sau nhiều năm chiến tranh. Tuy nhiên, thực dânPháp đã không giữ lời hứa, mà ngược lại liên tiếp gây hấn, mở rộng xâm lược ở nhiều nơi như Hải Phòng, LạngSơn, Nam Bộ… Chúng tăng cường quân đội, chiếm đóng các vị trí chiến lược, tấn công lực lượng ta, âm mưuthôn tính nước ta một lần nữa. Những hành động ngang ngược ấy đã đẩy quan hệ hai bên từ đối thoại sangđối đầu trực tiếp, khiến tình hình trở nên cực kỳ căng thẳng. Dân tộc Việt Nam đứng trước lựa chọn mang tínhsống còn: hoặc là tiếp tục chịu cảnh nô lệ, hoặc là vùng lên chiến đấu giành lại độc lập, tự do.Trước tình thế đó, ngày 18–19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông),dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, và đi đến quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiếnchống thực dân Pháp. Tối 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn và ký “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”,một văn kiện bất hủ, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí sắt đá của toàn dân tộc. Sáng 20/12/1946,Lời kêu gọi được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam, mở đầu bằng câu nói vang dội và thiêng liêng:“Hỡi đồng bào toàn quốc!”Chỉ ba từ ấy đã như tiếng sét giữa đêm đông, thức tỉnh hàng triệu trái tim Việt Nam, kêu gọi mọi tầng lớpnhân dân – già, trẻ, trai, gái – cùng đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc. Tiếng gọi của Người đã trở thành hiệu lệnhmở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, khẳng định tinh thần “Không có gì quý hơn độclập, tự do” và mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc – thời kỳ toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiếnvì độc lập và tương lai của đất nước.
Nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của Bác.Khu vực phố Hàng Đào, Cầu Gỗ (Hà Nội) năm 1946.Phát lệnh toàn quốc kháng chiến ở Hà Nội, tháng 12/1946.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16.Ngay sau Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịchHồ Chí Minh (19–20/12/1946), nhân dân và lực lượng vũtrang trên cả nước, đặc biệt là các đô thị phía Bắc vĩ tuyến16, đã đồng loạt vùng lên chiến đấu chống thực dân Pháp.Tiếng súng đầu tiên vang lên ở Hà Nội, mở đầu cho cuộckháng chiến toàn dân, toàn diện vì độc lập, tự do của Tổquốc.Hà Nội trở thành biểu tượng của tinh thần “Quyết tử choTổ quốc quyết sinh”. Trong 60 ngày đêm khóilửa(19/12/1946 – 17/2/1947), quân dân Thủ đô, đứng đầu làTrung đoàn Thủ đô, đã kiên cường chiến đấu ở từng conphố, từng góc nhà, giam chân địch suốt hai tháng, làm phásản âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dânPháp.Phong trào kháng chiến nhanh chóng lan rộng khắp miềnBắc: Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, TháiNguyên… đều trở thành pháo đài kiên cường. Đặc biệt, tạiHải Phòng, cuộc tàn sát của Pháp từ tháng 11/1946 đã thổibùng ngọn lửa căm thù, thôi thúc nhân dân cả nước vùngdậy. Ở khắp nơi, quân dân ta đồng lòng chiến đấu, phá hủycơ sở địch, góp phần đánh bại âm mưu chiếm đóng nhanhcủa Pháp và đặt nền móng cho cuộc kháng chiến lâu dài, điđến thắng lợi hoàn toàn của dân tộc Việt Nam.Một đơn vị đóng chiếm sân bay Bạch Mai.
Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô vượt sông Hồng, rút khỏi Hà Nội sáng 18/2/1947 (ảnh 1).Các nữ chiến sĩ cứu thương vận chuyển thương binh (ảnh 2).
Tàu chiến Pháp bị quân ta đánh đắm trên sông Lô (1947).Bộ đội ta tham gia chiến dịchViệt Bắc Thu - Đông 1947.Đại tướng Võ b
Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947Đại tướng Võ Nguyên Giáp, CụHồ và các chiến binh bàn kếhoạch tác chiến.Nguyên Giáp cùngbinh sĩSau khi quân Pháp tái chiếm nhiều vùng ở Bắc Bộ và liên tiếp mở các đợt tập kích vào Hà Nội, Hải Phòng vànhiều đô thị khác, chúng đặt mục tiêu “dứt điểm” lực lượng Việt Minh bằng một cuộc tấn công quy mô lớn lêncăn cứ địa Việt Bắc – trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, Trung ương Đảng và Chính phủ ViệtNam đã sớm dự đoán được âm mưu này, chủ động chuẩn bị lực lượng, di chuyển các cơ quan trọng yếu, xâydựng thế trận phòng ngự và tổ chức phản công.Tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn gồm bộ binh, dù, thiết giáp và không quân, chialàm nhiều mũi tiến công lên Việt Bắc với tham vọng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo của ta. Trước tình thế đó, dướisự chỉ huy trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, quân dân ta đã bình tĩnh ứng phó, nhanhchóng rút các cơ quan đầu não về khu an toàn, đồng thời triển khai chiến thuật “tiến công trong phòng ngự”,linh hoạt phục kích, bao vây và tiêu hao địch. Các trận đánh lớn diễn ra ác liệt ở Chợ Đồn, Chợ Mới, Bắc Kạn,Đoan Hùng, Khe Lau…, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Sau hơn hai tháng càn quét trong rừng núi hiểmtrở, Pháp không những không đạt được mục tiêu mà còn phải rút lui trong thất bại vào tháng 12 năm 1947.Chiến thắng Việt Bắc Thu – Đông 1947 là một mốc son chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống Pháp. Thắng lợinày đã chứng minh đường lối chiến tranh nhân dân, chủ trương tổ chức “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện trang bị và địa hình Việt Nam. Nghệ thuật chỉ huy, tổchức lực lượng và sử dụng chiến thuật du kích linh hoạt được nâng lên tầm cao mới, đặt nền móng cho nghệthuật chiến dịch Việt Nam sau này. Từ chiến thắng ấy, phong trào kháng chiến toàn dân được củng cố, thế vàlực của ta ngày càng vững mạnh, tạo tiền đề cho những thắng lợi to lớn hơn trong các năm tiếp theo của cuộckháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950Bác Hồ cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Chiến dịch Biên Giới Thu – Đông 1950 là mộtbước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chốngthực dân Pháp. Đầu năm 1950, tình hình quốctế có nhiều chuyển biến thuận lợi: nước Cộnghòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Liên Xô mởrộng viện trợ cho phong trào giải phóng dântộc, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam Dânchủ Cộng hòa về ngoại giao và tiếp vận. Nắmbắt thời cơ, Đảng và Bộ Chỉ huy quyết định mởchiến dịch quy mô lớn trên tuyến biên giới,nhằm khai thông đường liên lạc quốc tế, mởrộng vùng tự do và tạo thế chủ động mới chokháng chiến.Ngày 16/9/1950, chiến dịch mở màn bằng trậnđánh chiếm Đông Khê – vị trí then chốt trênđường số 4. Sau hai ngày chiến đấu ác liệt,quân ta làm chủ thị trấn, tạo thế uy hiếp ThấtKhê và cô lập Cao Bằng, khiến phòng tuyếncủa Pháp bị rối loạn nghiêm trọng. Tiếp đó,quân ta triển khai nhiều trận phục kích vàchặn đường rút, khiến các cánh quân Pháp bịchia cắt, tiêu diệt từng cụm, không thể ứngcứu lẫn nhau.Bộ đội ta tiến vào giải phóng Thất Khê.Bác hồ trên đài quan sát mặt trận Đông Khê 1950.
Sau 29 ngày chiến đấu (từ 16/9 đến giữa tháng 10/1950), quân ta giành thắng lợi to lớn: giải phóngtoàn bộ đường số 4 từ Cao Bằng đến biên giới Việt – Trung, tiêu diệt và bắt sống hàng nghìn địch,thu nhiều vũ khí, phương tiện. Chiến thắng Biên Giới 1950 đã phá vỡ thế bao vây của Pháp, mởthông biên giới quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và đánh dấu bướctrưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam.Tiểu doàn 374 tham gia Chiến dịch biên giới 1950.
Chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.Bộ đội ta áp sát tấn công giải phóng thị xã Kon Tum. Bộ đội ta hành quân trong chiến dịch Bắc Tây Nguyên.Đầu năm 1953, thực dân Pháp triển khai Kếhoạch Navarre với mục tiêu dựa vào viện trợcủa Mỹ để giữ vững phòng tuyến ở phía Bắcvĩ tuyến 18, củng cố lực lượng ở phía Trung– Nam Đông Dương, chiếm Liên khu 5 rồichuyển quân lên Bắc Bộ nhằm tạo thế épbuộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộnghòa phải chấp nhận những điều kiện đàmphán có lợi cho Pháp. Tháng 5/1953, tướngHenri Navarre thay Raoul Salan làm Tổngchỉ huy, thể hiện quyết tâm “kết thúc chiếntranh trong danh dự” bằng các hành độngquân sự quy mô và kế hoạch cố thủ chiếnlược.Đối phó với âm mưu đó, Đảng, Bộ Chính trịvà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo thực hiệnchiến lược Đông–Xuân 1953–1954: khắcphục khó khăn, duy trì thế chủ động, buộcđịch phải phân tán lực lượng và phát triểnrộng rãi phong trào du kích. Về chiến lượchành động, ta chủ trương mở năm đòn tiếncông chiến lược nhằm phân tán và tiêu haosinh lực địch, phá vỡ kế hoạch tập trung lựclượng của Pháp và tạo điều kiện cho chiếntranh du kích sau lưng địch phát triểnmạnh. Năm đòn đánh này không chỉ làm suyyếu sức cơ động và tinh thần của quânPháp, mà còn mở rộng vùng giải phóng,củng cố hậu phương và tạo thế, tạo lực chonhững bước tiến quyết định sau này.
Từ ngày 10 đến 20/12/1953, ta mở hướng tiến công chiến lược ở Lai Châu, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giảiphóng vùng Tây Bắc và uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía Bắc. Các đơn vị chủ lực của ta phối hợp cùng lực lượng vũtrang địa phương tiến đánh mạnh mẽ, khiến hệ thống phòng ngự của Pháp ở Lai Châu nhanh chóng bị tan rã.Toàn bộ vùng Lai Châu được giải phóng, nhiều vị trí then chốt của địch bị tiêu diệt hoặc buộc phải rút chạy vềcố thủ tại Điện Biên Phủ.Trước thế tiến công của ta, quân Pháp hoảng hốt điều gấp 6 tiểu đoàn tinh nhuệ từ các nơi khác đến tăngcường cho Điện Biên Phủ, biến nơi đây từ một vị trí đồn trú thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương.Tuy nhiên, chính quyết định đó đã vô tình giúp ta lựa chọn được một chiến trường quyết định, nơi quân dânViệt Nam sau này làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Quân Pháp rút khỏi Lai Châu
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tổ chức tấn công vào đốiphương tại đồi 723 - Đường 9 Nam Lào.Bộ đội ta hành quân tham gia chiến dịch năm 1971.Từ cuối tháng 12/1953 đến tháng 5/1954,quân tình nguyện và bộ đội chủ lực ViệtNam phối hợp với lực lượng Lào mở chiếndịch Trung – Hạ Lào, tiến công mạnh mẽtuyến phòng thủ của địch, giải phóng vùngrộng lớn gồm Attapư, cao nguyên Boloven,Nam Saravan, nối liền vùng giải phóngTrung và Hạ Lào. Chiến thắng này cô lậphoàn toàn lực lượng Pháp giữa Đông và TâyĐông Dương, tạo hành lang chiến lược quantrọng.Đồng thời, tại miền Đông Campuchia, quântình nguyện Việt Nam cùng lực lượng khángchiến Campuchia giải phóng Voxai, XiêmPạng, mở rộng vùng kiểm soát và uy hiếpcăn cứ Stung Treng. Thắng lợi trên haichiến trường đã làm tan rã hệ thống phòngngự của Pháp ở Đông Dương, đồng thờithắt chặt tình đoàn kết chiến đấu giữa banước Việt – Lào – Campuchia.
Từ 26/1 đến 17/2/1954, quân ta mở chiến dịch ở Bắc Tây Nguyên, tậptrung tiến công các vị trí trọng yếu của địch tại khu vực Kon Tum. Saunhiều trận chiến ác liệt, Kon Tum được hoàn toàn giải phóng, tạo thế uyhiếp mạnh mẽ lên Pleiku – căn cứ quan trọng của Pháp ở miền Trung.Trước sức tấn công dồn dập của ta, Pháp buộc phải điều quân tăng việncho Pleiku, làm phân tán lực lượng trên toàn chiến trường, góp phầnquan trọng vào việc phá vỡ kế hoạch tập trung binh lực của địch theo Kếhoạch Navarre.Bộ đội ta áp sát tấn công giải phóng thị xã Kon Tum
Từ 29/1 đến 13/2/1954, liên quân Việt – Lào mở chiến dịchThượng Lào, tiến công mạnh vào tuyến phòng thủ của Pháp, giảiphóng lưu vực sông Nậm Hu và tỉnh Phongsaly, mở rộng vùng giảiphóng lên phía Bắc Lào. Trước sức tấn công quyết liệt của ta,quân Pháp buộc phải rút chạy, dồn lực lượng về Louangphabangvà Mường Sài để phòng thủ. Thắng lợi của chiến dịch làm tan rãmột mảng lớn hệ thống phòng ngự của địch ở Bắc Lào, đồng thờicủng cố mối liên minh chiến đấu Việt – Lào, tạo điều kiện thuậnlợi cho chiến dịch Điện Biên Phủ sau này.Bộ đội chuẩn bị bộc phá cho trận đánh trong Chiến dịch Thượng Lào.Hội nghị đại biểu Chính phủ hai nước Việt Nam - Lào bàn kế hoạch mở chiến dịch Thượng Lào (1953)
Giai đoạn 1951–1953 đánh dấu bước phát triểnmới của cuộc kháng chiến chống Pháp cả vềchính trị lẫn quân sự. Tháng 2/1951, tại Chiếnkhu Việt Bắc, Đại hội II của Đảng Cộng sản ĐôngDương quyết định đưa Đảng ra hoạt động côngkhai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam, thểhiện sự trưởng thành và lớn mạnh trong vai tròlãnh đạo cách mạng. Cùng năm đó, Mặt trận ViệtMinh và Hội Liên Việt hợp nhất thành Mặt trậnLiên Việt, và Liên minh nhân dân Việt – Miên –Lào được thành lập, củng cố khối đoàn kết toàndân và toàn Đông Dương chống kẻ thù chung.Trên mặt trận quân sự, Quân đội nhân dân ViệtNam chuyển sang thế tấn công chủ động, mởnhiều chiến dịch lớn như Hòa Bình (1951–1952),Tây Bắc (1952) và Thượng Lào (1953), tiêu diệtsinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng và phốihợp hiệu quả với quân dân Lào. Những thắng lợinày đã giữ vững thế chủ động chiến lược, tạobước đệm vững chắc cho chiến thắng Điện BiênPhủ năm 1954, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiếnchống thực dân Pháp.Cùng với những chuyển biến lớn về chính trị và quânsự, mặt trận kinh tế, văn hóa và xã hội của Việt Namcũng có nhiều bước tiến quan trọng. Nhà nước tậptrung xây dựng nền kinh tế kháng chiến, bảo đảmnhu cầu thiết yếu của nhân dân và hậu cần cho tiềntuyến. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được chútrọng phát triển ngay trong vùng kháng chiến, gópphần nâng cao dân trí, chăm lo đời sống nhân dân vàcủng cố niềm tin vào cách mạng. Bên cạnh đó, phongtrào thi đua yêu nước lan rộng khắp cả nước, khơi dậytinh thần lao động, chiến đấu và sáng tạo trong mọitầng lớp.Những thành tựu ấy đã tạo nên bước phát triển mớicho cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ta không cònchỉ phòng thủ mà chuyển sang thế chủ động chiếnlược, kết hợp tiến công và phản công mạnh mẽ. Tổchức chính trị – xã hộiđược củng cố, khối đại đoànkết toàn dân thêm bền chặt, và cơ sở vật chất – kinhtế – văn hóa – y tế trong vùng kháng chiến từng bướcđược xây dựng, tạo nền tảng vững chắc cho thắng lợihoàn toàn sau này.1951–1953: Khi kháng chiến sang trang mới.
Chiến dịch Điện Bên Phủ - 56ngày vẻ vang sử sách.
Tháng 12/1953, Đảng ta quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm tiêu diệt lực lượngđịch, giải phóng Tây Bắc và hỗ trợ cách mạng Lào. Ta huy động hơn 55.000 quân, hàngchục nghìn tấn vũ khí, lương thực, cùng 21.000 xe đạp thồ, ô tô, thuyền bè ra mặt trận.Chiến dịch được chia ra làm 3 đợt. Ngày 13/3/1954, chiến dịch chính thức mở màn dướisự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong đợt tiến công đầu (13–17/3/1954), quânta đánh chiếm Him Lam, Độc Lập, buộc địch ở Bản Kéo đầu hàng, phá vỡ phòng tuyếnphía Bắc.Kết quả, ta tiêu diệt và bắt hơn 2.000 địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ một trung đoàn,khiến Tư lệnh pháo binh Pháp Pirốt phải tự sát – mở đầu thắng lợi vang dội cho chiến dịchlịch sử.
Từ ngày 30/3 đến 30/4/1954, quân ta mở đợt tiến công thứ hai trong Chiến dịch Điện Biên Phủ – giai đoạncó ý nghĩa quan trọng trong việc làm thay đổi cục diện chiến trường. Mũi tấn công chủ lực tập trung vào cáccứ điểm phía Đông của khu trung tâm, nơi án ngữ những cao điểm chiến lược bảo vệ sân bay Mường Thanh –tuyến tiếp tế duy nhất của quân Pháp. Với sự phối hợp nhịp nhàng và chính xác giữa bộ binh và pháo binh,quân ta liên tiếp mở các đợt tấn công mạnh mẽ, đánh chiếm từng cao điểm, từng trận địa một. Sau nhiềungày chiến đấu ác liệt, ta đã kiểm soát hoàn toàn sân bay Mường Thanh, cắt đứt nguồn tiếp viện bằng đườngkhông của địch, đồng thời siết chặt vòng vây, khiến hệ thống phòng ngự của Pháp ngày càng bị thu hẹp vàrối loạn.Quân ta đã bất ngờ tấn công vị trí 206 và tiêu diệt hoàn toàn vị trí này, đây là vị trí cuối cùng ở phía Tây sân bay Mường Thanh. Trước tình thế nguy cấp, quân Pháp nhiều lần phản công liều lĩnh nhằm giành lại các vị trí trọng yếu nhưngđều bị quân ta đánh bại. Lực lượng địch bị tiêu hao nghiêm trọng, tinh thần sa sút, hậu cần rối loạn. Đặc biệt,ngày 22/4/1954, quân ta bất ngờ tấn công và tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm 206, vị trí phòng ngự cuối cùngbảo vệ khu trung tâm và sân bay Mường Thanh. Chiến thắng này đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thốngphòng thủ của Pháp, khiến tinh thần địch suy sụp nặng nề. Đây là bước ngoặt quan trọng, mở đường choquân ta chuẩn bị đợt tổng công kích cuối cùng, quyết định số phận của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ,đồng thời khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiếntrường kỳ chống thực dân Pháp.
Quân ta ở đồi C1.Máy bay của Pháp bị bắn hạ.Chiến sĩ được nhận chữa trị.Quân đội ta áp dụng thành công chiến thuật "đánh dúi".
Trung đoàn 98 (Đại đoàn 316) tiêu diệt quân Pháp còn kiểm soát một nửa đồi C1.Đợt 3 (1/5/1954 – 7/5/1954) đánh dấu giai đoạn tổng công kích quyết định của Chiến dịch Điện Biên Phủ –trận chiến mang tính lịch sử, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cho quân và dân ta. Nhiệm vụ trọng tâm của đợtnày là đánh chiếm các điểm cao phía Đông, trong đó đồi A1 là vị trí chiến lược then chốt, đồng thời tiêu diệtmột số cứ điểm phía Tây, bao vây và bắn phá khu trung tâm địch, chuẩn bị cho đòn tổng công kích cuốicùng. Chiều 1/5/1954, pháo binh ta đồng loạt nổ súng, phá hủy kho đạn và kho lương thực của quân Pháp,khiến hệ thống pháo binh ở khu Hồng Cúm bị tê liệt. Ngay sau đó, các đơn vị bộ binh đồng loạt xung phongtấn công nhiều vị trí, mở đầu cho cuộc chiến ác liệt nhất của toàn chiến dịch.Trận đánh tại đồi C1 và A1 trở thành một trong những trận chiến khốc liệt và oanh liệt nhất của toàn chiếndịch, nơi ý chí kiên cường và lòng quả cảm của quân ta được thể hiện đến tột cùng. Suốt gần một tháng trời,giữa mưa bom bão đạn, quân ta và quân địch giằng co từng tấc đất, diễn ra nhiều trận đánh giáp lá cà quyếtliệt. Dù phải đối mặt với hỏa lực mạnh và hệ thống phòng ngự kiên cố của địch, các chiến sĩ vẫn kiên địnhbám trụ, chiến đấu anh dũng, không lùi bước. Trong đó, Đại đội 811 đã lập nên chiến công xuất sắc khi kiêncường giữ vững trận địa ở đồi C1, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của toàn mặt trận.Quân ta đã lần lượt tiêu diệt, làm chủ các cao điểm chiến lược C1, C2, A1, A3 và phân khu Hồng Cúm, hoàntoàn làm chủ khu Đông – cửa ngõ quan trọng bảo vệ sở chỉ huy địch. Đêm 6 rạng sáng 7/5/1954, trong khíthế hào hùng của tổng công kích, quân ta đồng loạt xung phong đánh chiếm sở chỉ huy De Castries, bắtsống toàn bộ Bộ chỉ huy Pháp cùng hơn 16.000 quân địch. Lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” tung bay trênnóc hầm chỉ huy đã đánh dấu thời khắc lịch sử huy hoàng, kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ với thắng lợihoàn toàn, đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp, làm rạng danh tinh thần chiến đấu anhdũng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
CHIẾN THẮNG
ĐIỆN BIÊNtiếng sét vang rền đánh tan xiềng xích thực dân!
Trên mặt trận ngoại giao, thắng lợi vang dộicủa Chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ làchiến thắng quân sự mà còn là chiến thắngchính trị – ngoại giao có ý nghĩa to lớn, tạo thếvà lực mới cho Việt Nam trên trường quốc tế.Dưới sức ép của dư luận thế giới và sự thất bạinặng nề trên chiến trường, thực dân Pháp buộcphải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghịGenève về lập lại hòa bình ở Đông Dương. Sauhơn hai tháng thương lượng căng thẳng, ngày21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève chínhthức được ký kết, đánh dấu một cột mốc lịch sửtrọng đại trong cuộc kháng chiến chống Phápcủa nhân dân ta.Hiệp định Genève khẳng định các bên tham dự cam kếttôn trọng và công nhận những quyền dân tộc cơ bảncủa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia – đó là quyềnđộc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.Theo hiệp định, quân đội Pháp phải rút khỏi Việt Nam,miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, trở thành hậuphương lớn của cả nước. Hiệp định Genève đã chínhthức chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Phápở Đông Dương, khép lại hơn tám mươi năm đô hộ, mởra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam – thời kỳ xâydựng, bảo vệ thành quả cách mạng và tiếp tục đấutranh vì sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.Đây không chỉ là thắng lợi của riêng nhân dân Việt Nammà còn là niềm cổ vũ to lớn cho phong trào giải phóngdân tộc trên toàn thế giới, khẳng định rằng: một dântộc dù nhỏ bé nhưng với lòng yêu nước nồng nàn, ý chísắt đá và sự lãnh đạo đúng đắn, vẫn có thể đánh bạimọi thế lực xâm lược để giành lại tự do, độc lập và vinhquang cho Tổ quốc.Cờ đỏ sao vàng tung bay ở Hội nghị Genève.Đại diện Chính phủ Pháp Henri Delteil ký Hiệp địnhGeneva về đình chỉ chiến sự tại Việt Nam.
Hình ảnh tại Hội nghị Genève tại Thuỵ Sĩ.
Cụ Hồ dùng bữa cùng các chiến sĩ chiến khu Việt Bắc.3NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945–1954) là kết tinh củasức mạnh toàn dân tộc Việt Nam. Trước hết là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộngsản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện,lâu dài và tự lực cánh sinh, đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và khát vọngtự do của toàn dân.Từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền ngược, nhân dân Việt Nam mộtlòng hướng về kháng chiến, góp sức người, sức của, nuôi giấu cán bộ, phục vụ tiềntuyến. Chính quyền dân chủ nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng lớnmạnh, trở thành nòng cốt trong các chiến trường, làm nên những chiến thắng vang dộinhư Biên Giới (1950) và Điện Biên Phủ (1954).Cùng với đó, hậu phương kháng chiến vững chắc bảo đảm hậu cần, lương thực và vũkhí cho tiền tuyến, trong khi phong trào cách mạng thế giới dành cho Việt Nam sự ủnghộ to lớn. Tất cả những yếu tố ấy đã hòa quyện thành sức mạnh tổng hợp, làm nênChiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954 – “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”(Chủ Tịch Hồ Chí Minh), mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và tự hào cho dân tộc ViệtNam.
Chiến thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945–1954) đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ củathực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn đất nước và giành lại nền độc lập dân tộc. Miền Bắc được giải phóng,bước vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương vững chắc cho sự nghiệp giải phóngmiền Nam và thống nhất Tổ quốc. Cuộc kháng chiến cũng làm thất bại âm mưu tái chiếm Đông Dương củaPháp và sự can thiệp của Mỹ, giáng đòn quyết định vào chủ nghĩa thực dân cũ, đồng thời cổ vũ mạnh mẽphong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.Thắng lợi ấy đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,đồng thời tạo tiền đề để ký kết Hiệp định Genève năm 1954, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở ĐôngDương. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève đã mở ra con đường mới, đánh dấu bước ngoặt lịchsử trong hành trình giành lại độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, đưa đất nước bước vào thời kỳ cáchmạng mới đầy vinh quang.4Ý NGHĨA THẮNG LỢI
LỜI KẾTKết lại, những trang tạp chí này không chỉ đơn thuần là sự ghi chép lịch sử, mà còn là bản hùng ca bất diệtvề một thời oanh liệt – thời kỳ mà cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên, tay không chống lại thực dân Phápxâm lược với niềm tin sắt son vào độc lập và tự do. Trong suốt chín năm kháng chiến trường kỳ (1945–1954),biết bao con người từ già, trẻ, gái, trai đã cống hiến trọn vẹn tuổi xuân, máu xương và trí tuệ cho Tổ quốc.Họ chiến đấu trong gian khổ, đói nghèo, nhưng lòng yêu nước và tinh thần bất khuất vẫn rực cháy nhưngọn đuốc dẫn đường. Từ chiến khu Việt Bắc đến đồng bằng Bắc Bộ, từ Trung – Nam Bộ đến vùng rừng núiLào, Campuchia, khắp nơi đều vang vọng khí thế “toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”.Tạp chí này được biên soạn với tất cả lòng tôn kính và biết ơn sâu sắc, như một lời tri ân gửi đến những anhhùng đã ngã xuống, và cả những người dân thường lặng thầm góp sức, dệt nên chiến thắng Điện Biên Phủ“lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Mỗi trang viết, mỗi hình ảnh trong ấn phẩm là một mảnh ký ứcthiêng liêng, một chứng nhân sống động của thời đại mà dân tộc ta đã “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu thắngmạnh” bằng ý chí sắt đá và niềm tin không gì lay chuyển.Ngày nay, khi đất nước đã độc lập, non sông liền một dải, chúng ta càng phải ghi nhớ rằng hòa bình hômnay là kết tinh của bao máu xương và nước mắt. Mong rằng khi khép lại những trang này, mỗi người đọc –đặc biệt là thế hệ trẻ – sẽ cảm nhận được niềm tự hào dân tộc, khơi dậy trách nhiệm gìn giữ và phát huytruyền thống anh hùng của cha ông. Bởi lịch sử không chỉ để nhớ, mà còn để soi đường, để mỗi chúng tasống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn, và tiếp tục viết nên những trang vàng mới cho Tổ quốc Việt Nam yêudấu.
TRÍCH NGUỒNTHAM KHẢO Các hình ảnh, tư liệu được sử dụng trong cuốn tạp chí này được lấy nguồn và tham khảo từ:Bảo Tàng lịch sử Việt Nam.Thông tấn xã Việt Nam.Báo quân đội nhân dân.Báo công an nhân dân.PHÂN CHIA NHIỆM VỤKhánh Vy - thiết kế tạp chí.Như Quỳnh, Lam Chi. Lập An, Quế Anh - tìm thông tin.
M Ộ T T H Ờ I L Ử A Đ Ạ NM U Ô N Đ Ờ I T Ự H À O !Khánh VyNhư QuỳnhLam Chi Lập AnQuế Anh